Cách đây hơn ba thế kỷ, trong khí
thế sục sôi của cuộc Cách mạng Mỹ, Thomas Paine, một người Anh và là nhà cách mạng
lỗi lạc của Mỹ đã viết cuốn sách Lương tri (Common Sense) kêu gọi người Mỹ đứng
lên đấu tranh giành độc lập và xây dựng chính quyền cho riêng mình. Tuy nhiên, bất chấp sự sục sôi của một nhà
cách mạng, Thomas Paine vẫn đủ tỉnh táo để nhắc nhở người dân Mỹ rằng mục tiêu
của cuộc Cách mạng là tạo dựng một Nhà nước mà trong đó người dân thực sự làm
chủ và chính quyền phải tôn trọng những Quyền cơ bản của người dân. Đó là một Nhà nước với quyền lực bị hạn chế để
không tạo ra áp bức và vi phạm nhân quyền.
Đã có người chụp mũ cho rằng ông không tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của
Nhà nước mới. Tuy nhiên, để đáp lại những
lời chỉ trích, Paine đã viết “Khi chúng
ta xây dựng cho hậu thế, cần phải nhớ rằng, đức hạnh không có tính di truyền”. Hạn chế quyền lực Nhà nước không phải là vì
nhân dân không tin vào Nhà nước do họ đổ máu xây dựng nên mà là để không biến
Nhà nước thành một công cụ cho một ai đó lợi dụng thanh danh và công lao của
cha ông để chiếm quyền và đàn áp lại nhân dân.
Chính vì thế, người Mỹ đã đưa vào Hiến pháp của họ Tuyên ngôn các Quyền
(Bill of Rights) và từ đó, Quyền công dân, quyền con người trở thành một nội
dung cơ bản của Hiến pháp.
Dự thảo Hiến pháp (Dự thảo)
hiện nay là bước chuẩn bị để Việt Nam lần đầu tiên có cơ hội có được một bản Hiến
pháp dân chủ, đầy đủ, trọn vẹn và có tính pháp lý cao. Tuy nhiên, phần lớn những ý kiến gần đây tập
trung chủ yếu vào việc xác lập một chính quyền mạnh mà dường như quên mất nội
dung về Quyền con người, quyền công dân. Bài viết trình bày dưới đây những kiến nghị của bản thân về một số nội
dung liên quan đến Chương II của Dự thảo về Quyền con người, Quyền công
dân. Hy vọng những ý kiến của tác giả sẽ
giúp ích cho các nhà lập hiến và đồng bào Việt Nam trong việc xây dựng bản Hiến
pháp mới và thông qua nó một cách sáng suốt, trí tuệ.
Sự
giới hạn của quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp
Điều 15.2 Dự thảo sửa đổi, bổ
sung Điều 50 Hiến pháp 1992 ghi nhận:
“…
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức,
sức khỏe của cộng đồng.”
Đây là một nội dung mới của Dự thảo
so với Hiến pháp 1992. Giới hạn Quyền
con người, quyền công dân (Giới hạn Quyền) trong những trường hợp
đặc biệt không phải là không phổ biến trong lịch sử Lập hiến thế giới. Tuy nhiên, vì đây là một nội dung mới và ảnh
hưởng trực tiếp đến công dân, những nhà lập hiến cần phải hết sức thận trọng
trong cách quy định.
Dự thảo đưa ra năm lý do cho việc
Quyền con người, quyền công dân bị giới hạn đó là “quốc phòng”, “an ninh quốc
gia”, “trật tự, an toàn xã hội”, “đạo đức”,
“sức khỏe cộng đồng”. Tuy nhiên, Điều
15.2 không quy định rõ việc giới hạn này sẽ được thực hiện như thế nào và biện
pháp ra sao. Thiết nghĩ việc quy định rõ
biện pháp, cách thức và quy trình giới hạn của Quyền con người, quyền công dân
là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, tuy cả
năm lý do được đề cập đến trong Điều 15.2 đều rất quan trọng và thỏa đáng cho
việc hạn chế Quyền của công dân, nhưng sự giải nghĩa của năm lý do này là rất rộng,
dễ dẫn đến tình trạng Nhà nước áp đặt sự giải thích rộng khiến cho mọi trường hợp
có thể dẫn đến việc giới hạn Quyền. Lấy
ví dụ như lý do “quốc phòng” thoạt nhìn là rất thỏa đáng và hợp lý trong trường
hợp chiến tranh hay địch họa, nhưng lý do “quốc phòng” về nghĩa là rất rộng và
có thể bao gồm cả những trường hợp giới hạn không thỏa đáng trên thực tế như việc
giới hạn quyền tự do ngôn luận của người dân đối với các vấn đề an ninh, đối
ngoại của quốc gia vì lý do “quốc phòng”.
Hay “trật tự, an toàn xã hội” cũng là một khái niệm rộng dễ dẫn đến việc
quyền biểu tình của người dân bị ngăn chặn nhân danh “trật tự xã hội”. Việc đưa vào Dự thảo những lý do mà Nhà nước
có thể giới hạn Quyền là một sáng kiến táo bạo của các nhà lập hiến trong việc
buộc Nhà nước hạn chế quyền lực của mình, nhưng việc quy định không rõ ràng như
phân tích ở trên có thể gây tác dụng ngược lại, khiến cho Nhà nước được một quyền
rất lớn theo Hiến pháp để giới hạn Quyền.
Đây là điều mà các nhà lập hiến cần suy nghĩ và điều chỉnh để phát huy hết
mức tác dụng và ý nghĩa của Điều 15.2.
Trong nội dung giới hạn Quyền
này, thiết nghĩ nên quy định thật rõ và cụ thể những trường hợp nào (thay vì lý
do nào) để Nhà nước có thể giới hạn Quyền.
Một giải pháp có thể được đưa ra đó là giới hạn Quyền chỉ được phép áp dụng
trong “tình trạng khẩn cấp quốc gia”
(national emergency) theo Điều 101 Dự thảo.
Có nghĩa là khi và chỉ khi Nhà nước ban bố “tình trạng khẩn cấp quốc
gia” thì việc giới hạn Quyền mới được áp dụng.
Quy định như thế có thể giải quyết được về mặt thủ tục, quy trình và
cũng giới hạn được trường hợp cụ thể nào đó mà Nhà nước được giới hạn Quyền. Một số ý kiến có thể cho rằng quy định như thế
là hẹp và gây khó khăn cho Nhà nước trong những trường hợp cần thiết phải giới
hạn Quyền nhưng chưa đến mức phải ban bố “tình trạng khẩn cấp quốc gia”. Tuy nhiên, những nhà lập hiến cần quan niệm rằng
Quyền con người, quyền công dân là thiêng liêng tối cao và giới hạn Quyền là một
biện pháp hết sức nguy hiểm chỉ được áp dụng khi thật sự cần thiết và khi việc
không giới hạn Quyền có thể dẫn ảnh hưởng một cách trực tiếp, rõ ràng và hiện
hữu đến sự tồn vong của Tổ quốc.
Nếu các nhà lập hiến cho rằng Quyền nên bị giới hạn ngay cả khi quyền lợi
nhà nước hay an ninh quốc gia có thể bị xâm phạm một cách chung chung và mơ hồ
thì vô hình trung Quyền con người, quyền công dân trở thành một khái niệm được
ban phát bởi Nhà nước và có thể bị tước đoạt trong những trường hợp mơ hồ nhất. Quy định như Điều 15.2 Dự thảo rất dễ dẫn đến
tình trạng ban – cho Quyền như đã mô tả ở trên.
Vì lẽ đó, tác giả tha thiết đề nghị các nhà lập hiến cần xem xét lại Điều
15.2 và quy định nó một cách rõ ràng, cụ thể hơn.
Bên cạnh nội dung liên quan đến
khi nào thì giới hạn Quyền được phép áp dụng như phân tích ở trên, tác giả đề
nghị các nhà lập hiến cần đưa vào Hiến pháp một nội dung quan trọng mà bản Dự
thảo hiện hành không đề cập: một số Quyền công dân, quyền con người là đặc biệt
thiêng liêng, quan trọng và không thể bị giới hạn trong bất cứ trường hợp nào,
ngay cả là trường hợp “tình trạng khẩn cấp quốc gia” hay vì lý do nào đi chăng
nữa. Ví dụ, quyền được bình đẳng trước
pháp luật (Điều 17), quyền được sống (Điều 21), quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, thân thể, nhân phẩm (Điều 22), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều
25), quyền suy đoán vô tội và không bị kết án hai lần bởi cùng một tội danh (Điều
32)… Như đã phân tích ở trên, giới hạn
Quyền chỉ nên và chỉ được phép áp dụng khi và chỉ khi việc không giới hạn Quyền
có thể ảnh hưởng một cách trực tiếp, rõ ràng và hiện hữu đến sự tồn vong của Tổ
quốc. Việc giới hạn những Quyền như đã
liệt kê ở trên không có ý nghĩa sống còn đến việc tồn vong của Tổ quốc, vì thế
bất cứ việc giới hạn Quyền nào trong các Quyền nêu trên chỉ là một thủ đoạn lợi
dụng hoàn cảnh để tước đoạt Quyền của công dân.
Điều này cần đặc biệt tránh vì lịch sử đã chứng minh đây là công cụ được
các nhà độc tài sử dụng rất thường xuyên.
Ví dụ như kể từ sau khi ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia và thông qua
Đạo luật Trao quyền (Ermächtigungsgesetz
1933), Adolf Hitler, nhà độc tài Quốc
xã Đức, đã lợi dụng nó để tước đoạt tất cả các Quyền cơ bản của người dân Đức
bao gồm cả Quyền suy đoán vô tội hay Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng
và nhân phẩm, tạo điều kiện cho Mật vụ Đức Gestapo tiến hành tra tấn các nghi
phạm để buộc họ nhận tội và tổ chức cái gọi là Tòa án Nhân dân Quốc xã để xử tử
những nhà cách mạng yêu nước thông qua các phiên tòa bỏ túi (kangaroo court). Lịch sử câu chuyện này là của người Đức nhưng
bài học của nó thuộc về toàn thể nhân loại, và các nhà lập hiến Việt Nam không
được phép quên và lơ là khi soạn thảo bản Hiến pháp mới cho Tổ quốc.
Tóm lại, liên quan đến nội dung
giới hạn Quyền con người, quyền công dân, tác giả có hai kiến nghị:
- Nên hạn chế và quy định thật rõ lại những trường hợp, cách thức, quy mô để Nhà nước được phép giới hạn Quyền con người, quyền công dân. Tác giả đặc biệt đề nghị các nhà lập hiến nghiên cứu phương án chỉ cho phép việc giới hạn Quyền con người, quyền công dân thông qua việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ban bố “tình trạng khẩn cấp quốc gia” như theo Điều 101 Dự thảo.
- Một số Quyền là không thể bị hạn chế bởi vì việc giới hạn Quyền chỉ được áp dụng khi việc không giới hạn có thể ảnh hưởng một cách trực tiếp, rõ ràng và hiện hữu đến sự tồn vong của Tổ quốc. Các nhà lập hiến nên đưa cụ thể vào Hiến pháp những Quyền nào không được phép giới hạn vì bất kỳ lý do nào.
Quyền
và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định
Điều 20.2 Dự thảo quy định:
“… 2. Quyền và nghĩa vụ của công
dân do Hiến pháp và luật quy định.”
Điều 23.2:
“…
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức
trao đổi thông tin riêng tư khác.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác do pháp luật quy định.”
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác do pháp luật quy định.”
Điều 26 Dự thảo:
“Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Điều 37.2
“…
2. Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó
đồng ý.
Việc khám xét chỗ ở do luật định.”
Việc khám xét chỗ ở do luật định.”
Điểm chung của các quy định được
trích dẫn ở trên đó chính là các nhà lập hiến chỉ đưa vào Hiến pháp tên gọi của
các Quyền, còn việc diễn giải, định nghĩa, nội dung, quy trình thực hiện, cách
thức thực hiện được giao lại cho những nhà làm luật. Đây là cách quy định không mới đã xuất hiện
khá thường xuyên trong các bản Hiến pháp trước.
Một số quốc gia trên thế giới cũng giao việc quy định cụ thể nội dung
các Quyền cho các luật chuyên ngành như Hiến pháp Nga giao việc định nghĩa một
số quyền cho luật liên bang, Đạo luật cơ bản Đức cũng quy định tương tự, Hiến
pháp Đan Mạch trao quyền quy định cụ thể cho Quốc hội… Cách quy định như trong Dự thảo thoạt nhìn có
thể không phải là xa lạ. Tuy nhiên, nếu
phân tích kỹ có thể nhận ra quy định như thế tiềm ẩn những rủi ro về sự lạm quyền
của Nhà nước.
Câu chữ của bản Dự thảo rất lạm dụng
việc nội dung các Quyền sẽ do “pháp luật quy định” hoặc “theo luật định”. Tuy nhiên, khái niệm “pháp luật” như Dự thảo
nêu là rất rộng lớn. Riêng ở Việt Nam,
theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 năm 2008 đã liệt
kê tại Điều 2 mười hai loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau do mười cơ
quan khác nhau ban hành. Nếu như Hiến
pháp mới quy định nội dung các Quyền có thể do “pháp luật quy định” có nghĩa rằng
Quyền tự do ngôn luận có thể được một thông tư của một Bộ nào đó quy định, hay
Quyền biểu tình được Ủy ban nhân dân một tỉnh đưa ra. Điều này sẽ không là đáng nói trong trường hợp
Quốc hội đã có những Luật cụ thể liên quan đến các Quyền này vì trong trường hợp
đó, Luật của Quốc hội sẽ có giá trị cao hơn và bãi bỏ được những quy định trái
Luật. Tuy nhiên, trong trường hợp các
Quyền chưa được Luật của Quốc hội quy định cụ thể, quy định như Dự thảo có thể
dẫn đến tình trạng các cơ quan khác ngoài Quốc hội tùy tiện đưa ra các văn bản
quy phạm pháp luật làm hạn chế việc thực hiện Quyền trên thực tế. Một ví dụ của tình trạng này là Quyền biểu
tình của người dân theo Điều 69 Hiến pháp 1992.
Tuy đã tồn tại hơn 20 năm nay, nhưng Quyền biểu tình chưa bao giờ được
Quốc hội quy định cụ thể trong một Luật nào đó.
Văn bản cao nhất quy định vấn đề này có lẽ là Nghị định 38/2005/CP ngày
18-3-2005 của Chính phủ về việc quy định một số biện pháp bảo vệ trật tự công cộng
(Nghị
định 38). Đây là một Nghị định đứng
riêng rẽ, không nhằm tổ chức thực hiện một Luật cụ thể nào của Quốc hội và bao
gồm cả nội dung tại điều 7 quy định việc tụ tập đông người phải đăng ký với Ủy
ban nhân dân có thẩm quyền và việc tụ tập có thể bị bãi bỏ nếu Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cho phép hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên nhận thấy việc tụ tập
gây “ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự
công cộng hoặc vi phạm nội dung đã cho phép” (Điều 8). Như vậy, Nghị định 38 đã trực tiếp ảnh hưởng
đến Quyền biểu tình của người dân và thực tế đã được các cơ quan chính quyền áp
dụng để giải tán những cuộc tụ tập trên địa bàn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phản đối
việc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam của các quốc gia khác gần đây. Không bàn về nội dung cụ thể, tuy nhiên việc
để cho Chính phủ, không phải là một cơ quan dân cử, được ra một quy định duy nhất
điều chỉnh trực tiếp Quyền biểu tình của người dân theo Hiến pháp có vẻ không
thỏa đáng và thực tế đã không thực sự thuyết phục được những người tham gia tụ
tập phản đối.
Xét về mặt lý luận, cho phép các
cơ quan khác ngoài Quốc hội trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến Quyền
cũng phần nào mâu thuẫn với nguyên tắc hạn chế quyền lực Nhà nước mà nội dung
Quyền con người, quyền công dân hướng tới.
Nguyên tắc của một bản Hiến pháp dân chủ là đảm bảo Quyền cho công dân
và Quyền đó phải được chính công dân, thông qua Hiến pháp, hay do một cơ quan đại
diện, dân cử là Quốc hội quy định cụ thể.
Để cho một cơ quan khác quy định cụ thể trong khi những Quyền của người
dân có thể có mâu thuẫn lợi ích với chính cơ quan đó là trái với các nguyên tắc
pháp chế thông thường. Bản Hiến pháp mới
cần chấm dứt ngay tình trạng này để đảm bảo cho Quyền của người dân được thi
hành trên thực tế.
Trên cơ sở đã phân tích ở trên,
tác giả kiến nghị các nhà lập hiến cần loại bỏ việc sử dụng quy định nội dung của
các Quyền được thể hiện cụ thể “theo quy định pháp luật”. Tác giả đề nghị làm rõ cơ quan nào có trách
nhiệm phải quy định cụ thể các Quyền và đó chỉ có thể là Quốc hội, là cơ quan
dân cử. Điều này không loại bỏ quyền được
tham gia của các cơ quan khác nhưng cần giới hạn việc tham gia đó chỉ dừng ở mức
hướng dẫn thi hành các Luật cụ thể của Quốc hội. Đây là cách làm khá phổ biến trên thế giới được
ghi nhận trong Hiến pháp Nga (Quyền được quy định trong luật liên bang), Đạo luật
Cơ bản Đức (Quyền được quy định trong luật liên bang), hay Hiến pháp Đan Mạch
(Quốc hội quy định cụ thể nội dung Quyền) v.v…
Bên cạnh đó, việc quy định rõ Quốc
hội phải là cơ quan đưa ra Luật về nội dung các Quyền còn là cách để chấm dứt
tình trạng hơn 20 năm không có quy định của một số Quyền cơ bản của công dân
như hiện nay. Đồng thời chấm dứt tình trạng
trốn tránh trách nhiệm của một số đại biểu Quốc hội khi vin vào cớ “dân trí thấp”
để không thảo luận Luật. Trách nhiệm của
Quốc hội đối với các Quyền của người dân đó là tạo hành lang pháp lý để bảo vệ
người dân chứ không phải là quyết định khi nào thì người dân được phép thực hiện
quyền của mình. Bởi vì trên thực tế, nếu
đã được ghi nhận trong Hiến pháp, thì cho dù có Luật hay không thì người dân vẫn
sẽ thi hành Quyền của mình trong trường hợp cần thiết.
Điều này cũng sẽ mở đường cho việc
đưa vào luật hiến pháp Việt Nam khái niệm “vi
phạm hiến pháp không hành động” (legislative omission). Theo Đạo luật Cơ bản Đức hay Hiến pháp Ba
Lan, Cộng Hòa Séc, nếu như Quốc hội được Hiến pháp minh thị trao một nghĩa vụ
phải thông qua Luật cụ thể nào đó mà không thực hiện, Tòa án Hiến pháp hay cơ
quan bảo vệ Hiến pháp có quyền ra quyết định bắt buộc đưa vào chương trình làm
luật nội dung Luật bị “bỏ quên” đó, tránh trường hợp 20 năm không có Luật như
Việt Nam.
Như vậy, ở nội dung này, tác giả
đề nghị các nhà lập hiến xem xét hai vấn đề sau:
- Loại bỏ vĩnh viễn quy định nội dung các Quyền do “pháp luật quy định”. Thay vào đó, các nhà lập hiến nên quy định rõ cơ quan nào được phép quy định cụ thể nội dung các Quyền và hình thức của quy định đó phải là Luật.
- Quốc hội sẽ là cơ quan có nghĩa vụ ra Luật quy định nội dung các Quyền và đó là nghĩa vụ chứ không phải là một lựa chọn của Quốc hội.
Quyền
được sống
Điều 21 Dự thảo:
“Mọi
người có quyền sống.”
Đây là đề xuất rất mới của bản Dự
thảo, chưa từng xuất hiện trong các bản Hiến pháp trước đây. Điều 21 chỉ gói gọn trong năm từ nhưng chứa đứng
rất nhiều vấn đề pháp lý mà các nhà lập hiến cần xem xét và làm rõ.
Thứ nhất, Quyền sống theo Điều 21
có bao gồm cả việc tội phạm không thể bị xử tử hình? Vấn đề này được đặt ra bởi lẽ quy định tại Điều
21 Dự thảo hoàn toàn giống với quy định tại Điều 20 Hiến pháp Nga hiện
hành. Tuy nhiên, tại Điều 20 Hiến pháp
Nga, các nhà lập hiến Nga đã dự liệu mâu thuẫn giữa Quyền sống và Án tử hình bằng
quy định tại khoản 2, trong đó:
“2. Hình phạt tử hình cho đến khi được bãi bỏ
hoàn toàn có thể được thiết lập bởi luật liên bang như là một hình thức hình phạt
duy nhất đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tính mạng con người,
và bị cáo có quyền được xử bởi tòa án với sự tham gia của một bồi thẩm đoàn.”
Như vậy, học tập kinh nghiệm của
Liên bang Nga, các nhà lập hiến nên làm rõ nội dung của Quyền sống theo Điều 21
có mâu thuẫn với việc thi hành án tử hình ở Việt Nam hay không để tránh những
xung đột pháp lý không cần thiết trong việc thi hành án tử hình tại Việt Nam.
Thứ hai, Quyền sống theo Điều 21
có bất hợp pháp hóa việc phá thai của người phụ nữ hay không? Ở một số quốc gia như Mỹ, việc phá thai trong
một giai đoạn nào đó của thai kỳ có thể coi là tội phạm vì nó ảnh hưởng đến quyền
sống của thai nhi. Thực tế thì ở Mỹ, việc
phá thai chỉ được hợp pháp hóa thông qua án lệ Roe v. Wade của Tối cao pháp viện
Hoa Kỳ và phá thai chỉ được tiến hành trong hai giai đoạn đầu của thai kỳ với
những điều kiện ngặt nghèo. Điều này chứng
tỏ, có một luồng quan điểm pháp lý cho rằng thai nhi cũng là một hình hài con
người và do đó có quyền được sống. Vậy
Điều 21 có dọn đường cho việc bất hợp pháp hóa việc phá thai của người phụ nữ
hay không. Các nhà lập hiến cần làm rõ.
Tóm lại, đối với Điều 21, tác giả
có kiến nghị rằng các nhà lập hiến cần quy định rõ Quyền sống có mâu thuẫn với
án tử hình và việc phá thai hay không.
Đây là vấn đề mang tính quan điểm pháp lý và chính trị, tác giả xin
không lạm bàn ở đây.
Nguyên
tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Điều 32 Dự thảo:
“2.
Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một
tội phạm.”
Đây là một kiến nghị nhỏ cuối
cùng và thuần túy câu chữ. Việc quy định
“không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”
có thể bị hiểu sai rằng nếu một can phạm đã có bản án tù hoặc các biện pháp hình
sự của Tòa án thông qua xét xử thì sẽ không bị kết án lần hai bởi cùng một tội
danh. Trong khi đó, Quyền này cần hiểu
đúng đó là nếu như bị can, bị cáo đã được Tòa tuyên trắng án, hoặc Viện kiểm
sát nhân dân ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự thì cơ quan điều tra hay Viện
kiểm sát nhân dân không được tiếp tục truy tố họ vì tội danh đó thêm một lần nữa. Điều này nhằm tránh tình trạng trù dập bị
can, bị cáo, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ. Vì thế, tác giả kiến nghị điều chỉnh câu chữ
của Điều 32 Dự thảo từ “không ai bị kết
án hai lần vì một tội phạm” thành
“không ai bị kết án hoặc truy tố hai lần vì một tội phạm”.
Kết
luận
Nền dân chủ là phát minh lớn của
con người nhưng cũng là việc mà con người phải liên tục phấn đấu, nỗ lực tìm
tòi để hoàn thiện. Các nhà lập hiến khi
bắt tay vào soạn thảo một bản Hiến pháp cần ghi nhớ rằng Hiến pháp là một văn bản
pháp luật chứ không phải là một tuyên ngôn chính trị và cần phải có giá trị thi
hành trên thực tế. Khi nói về Quyền công
dân, quyền con người, người ta hay nhắc đến việc hạn chế quyền lực của Nhà nước. Điều này dễ bị quy chụp rằng quan điểm đó là
thiếu sự tin tưởng vào Nhà nước. Tuy
nhiên, những ai hiểu biết về lịch sử đều nhớ rằng một bản Hiến pháp với những
quy định xuề xòa, thiếu cân nhắc và không hữu hiệu trong việc hạn chế quyền lực
nhà nước rất có thể trở thành công cụ cho những nhà độc tài. Lịch sử đã đau đớn chứng kiến chủ nghĩa Quốc
xã ở Đức lên ngôi bằng một con đường hoàn toàn hợp pháp, hợp hiến và Hitler đã
thiết lập nền độc tài dã man cũng bằng việc lợi dụng những kẽ hở của Hiến pháp
Đức lúc đó. Một lần nữa, lịch sử câu
chuyện đó có thể là của riêng nước Đức, nhưng bài học thuộc về toàn thể nhân loại.