Thứ Năm, 18 tháng 3, 2010

Tòa Tư pháp Cộng hòa Pháp


[Viết theo đơn đặt hàng của bạn Phương Dung]
=========================


(Ảnh 1: Hệ thống Tòa án Pháp, source: wikipedia)


Hệ thống tòa án Pháp được tổ chức điển hình cho mô hình nhị nguyên. Người Pháp gọi đây là mô hình Kim tự tháp đôi [double pyramid structure]. Nhị nguyên có nghĩa là ở Pháp song song tồn tại hai hệ thống tòa án có chức năng xét xử riêng biệt, độc lập lẫn nhau cả về thẩm quyền lẫn quy trình tuyển chọn các viên chức.

Bài viết sẽ đi sâu tìm hiểu tổ chức và cách thức hoạt động, một cách cơ bản nhất, của nhánh Tòa án thứ nhất trong hệ thống Tòa án Pháp nói chung: nhánh Tòa dân sự thuần túy [Ordre Judiciaire].


Hệ thống Tòa dân sự thuần túy [Tòa tư pháp] nói chung được tổ chức theo ba cấp tòa, phân chia theo đơn vị khu vực và hành chính lãnh thổ. Ba cấp tòa bao gồm các tòa trong cấp xét xử ban đầu [1ere degre], tòa trong cấp xét xử phúc thẩm [2eme degre] và tòa trong cấp phá án [Htes Jurdictions] (1).

  • Cấp xét xử đầu tiên là cấp xét xử sơ thẩm. Hệ thống hóa, ở cấp xét xử này có 3 loại Tòa chính (ở đây, tôi chọn cách dịch phổ biến trong giới luật học Việt Nam): [1] Tòa sơ thẩm thẩm quyền hạn chế [tribunal d'instance - STTQHC ], [2] Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng [tribunal de grande instance -STTQR ], [3] các Tòa chuyên môn (2). Ngoài ra, đối với thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính, người Pháp giao việc này cho một loại Tòa riêng biệt, gọi là Tòa Đại hình [Cour d'Assises], đây là tòa duy nhất có chế định bồi thẩm đoàn [jury] (3). Cũng lưu ý thêm, cách phân chia này chỉ mang tính tương đối và thể hiện ý chí chủ quan của các nhà luật học, tùy cách tiếp cận mà chúng ta có thể có cách phân chia khác nhau.
  • Cấp xét xử thứ hai, hay còn gọi là cấp xét xử phúc thẩm [appeal], được tổ chức đơn giản hơn, bao gồm một hệ thống Tòa phúc thẩm [Cour d'Appel]. Riêng đối với vụ án hình sự [felony], cấp xét xử phúc thẩm được tổ chức đặc biệt hơn.
  • Ngoài ra, Pháp, cũng như các quốc gia theo Dân luật khác, tổ chức một cấp tòa Phá án, có nhiệm vụ xem xét lại vấn đề áp dụng pháp luật của các tòa cấp dưới. Ở đây, Tòa Phá án Pháp [Cour de Cassation] được xem như Tòa án tối cao trong nhánh Tòa Tư pháp.

1. Cấp xét xử sơ thẩm:

Ở Pháp, do nhu cầu phân phối công việc, giúp các thẩm phán và các Tòa không bị quá tải vì những vụ án ở cấp sơ thẩm này, hệ thống Tòa án Pháp ở cấp này đã được phân chia một cách chi tiết. Trong đó:
  • Tòa STTQHC: được tổ chức bao gồm một cơ quan chuyên xét xử các vụ án dân sự có mức độ nhỏ, tranh chấp không lớn [thông thường được quy đổi ra lượng tiền tranh chấp tính theo Euro], cơ quan này được gọi là các tribuanl civil. Bên cạnh đó, Tòa cũng có chức năng xét xử hình sự những vụ án nhỏ, thông thương là các vi phạm mang tính chất vi cảnh như lái xe vượt tốc độ, cơ quan này được gọi là các tribunal de police.
  • Tòa STTQR: Tòa này cũng có chức năng xét xử cả hình sự và dân sự. Cái tên nói lên phạm vi thẩm quyền của nó. Thẩm quyền của Tòa này là rất rộng. Có thể tóm tắt như sau, những vụ án dân sự nào không thuộc thẩm quyền của Tòa STTQHC và các tòa chuyên môn thì sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa STTQR. Đây là các vụ án có mức độ tranh chấp lớn, hoặc phức tạp, hoặc thuộc các chế định quan trọng trong Bộ luật Napoleon như ly hôn... Cơ quan xét xử dân sự của loại Tòa này cũng được gọi là tribunal civil. Đối với các vụ án hình sự, Tòa được phép xét xử các vụ án có khung hình phạt cao nhất là 6 năm tù giam, thông thường là các tội nhẹ, không gây nguy hiểm quá lớn cho xã hội. Cơ quan này được gọi là Tòa tiểu hình [tribunal correctionel].
  • Tòa chuyên môn: ở Pháp, một số vụ án có thể sẽ được đưa ra xét xử ở các tòa chuyên môn. Ví dụ như Tòa thương mại [Tribunal de Commerce], đây là một tòa khá đặc biệt vì bắt buộc một bên trong vụ kiện phải là thương nhân. Một tranh chấp thương mại giữa 2 thương nhân bắt buộc sẽ bị đưa ra Tòa thương mại. Nếu tranh chấp đó diễn ra giữa một người bình thường kiện một thương nhân thì nguyên đơn có quyền chọn Tòa thường hoặc Tòa thương mại. Nếu thương nhân đứng đơn kiện thì bắt buộc vụ án phải được đưa ra xét xử ở Tòa thương mại. Đó là nguyên tắc đặc trưng của Tòa này. Ngoài ra, còn có các Tòa khác như Tòa trẻ vị thành niên hay Tòa thành phần "thiểu số".
  • Tòa Đại hình: đối với các tội phạm có mức nguy hiểm cao, khung hình phạt trên 6 năm tù, pháp luật hình sự Pháp coi đây là các tội đại hình [felonies] và cần có một cơ chế xét xử riêng biệt. Tòa Đại hình Pháp được thành lập để xét xử các loại tội này. Vì đây là những tội mà hình phạt rất nghiêm khắc, cho nên pháp luật hình sự Pháp xây dựng nên chế định bồi thẩm đoàn [jury]. Bồi thẩm đoàn là một chế định tập hợp những người dân bình thường, tham gia xét xử chung với các thẩm phán chuyên nghiệp. Trong khi các thẩm phán chuyên nghiệp sẽ quyết định các vấn đề có tính pháp lý [matter of law], bồi thẩm đoàn sẽ là người trả lời các câu hỏi có tính sự kiện [matter of facts], ví dụ như bị cáo có mặt ở hiện trường lúc xảy ra vụ án hay không, hay hành vi trên có phải là bất khả kháng hay không.

(Ảnh 2: Quang cảnh Tòa Đại hình Pháp, source: Ministère de la Justice)


2. Cấp xét xử phúc thẩm:

Các vụ án được xét xử phúc thẩm thường tập trung vào một loại Tòa chính, được tổ chức theo đơn vị lãnh thổ. Ngoài ra, đối với các vụ án Đại hình thì pháp luật Pháp có quy định cơ chế phúc thẩm riêng.
  • Tòa phúc thẩm: theo pháp luật tố tụng Pháp, Tòa phúc thẩm sẽ nhận phúc thẩm tất cả các bản án bị kháng cáo kháng nghị của tất cả các loại Tòa sơ thẩm, trừ Tòa Đại hình (4). Trước đây, Tòa phúc thẩm Pháp, để giảm tải các tranh cãi không cần thiết đối với vụ án nhỏ, đã không nhận phúc thẩm các vụ án thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa STTQHC. Nhưng kể từ sau khi các Bộ luật về Tố tụng Dân sự và Tố tụng Hình sự Pháp được sửa đổi, Tòa phúc thẩm đã nhận phúc thẩm tất cả các vụ án do Tòa sơ thẩm thụ lý. Về cơ bản, Tòa phúc thẩm có 4 cơ quan chính: cơ quan Hộ tịch [sociale], chuyên phúc thẩm các quyết định của Tòa lao động [Conseil de Preud'hommes]; cơ quan Thương mại [commerciale] chuyên phúc thẩm các bản án của Tòa thương mại; cơ quan Dân sự [civile] chuyên phúc thẩm các bản án của tribunal civil; cơ quan hình sự [correctionnel] chuyên phúc thẩm các bản án của Tòa tiểu hình và Tòa vi cảnh.
  • Phúc thẩm Tòa Đại hình: trước năm 2001, các phán quyết của Tòa Đại hình sơ thẩm có tính chất chung thẩm, và không bị kháng cáo. Cách duy nhất để thay đổi phán quyết của Tòa Đại hình là thông qua trình tự Phá án, và chỉ có phần áp dụng pháp luật là có thể được sửa đổi, còn phần tình tiết vụ án thì sẽ vẫn được giữ y nguyên. Có lẽ điều này xuất phát từ sự đề cao sức mạnh của nhân dân và tính không thể sai của các bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, kể từ năm 2001, với sự ra đời của Luật 15 tháng 6, hay còn gọi là Luật suy đoán vô tội, sửa đổi một số điều cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự, chức năng phúc thẩm đối với bản án của Tòa Đại hình đã được thêm vào (5). Trong đó, một bản án của Tòa Đại hình có thể được phúc thẩm, xem xét lại cả những tình tiết trong vụ án, chứ không đơn thuần là xem xét việc áp dụng pháp luật như thủ tục Phá án. Cơ quan thực hiện chức năng phúc thẩm này sẽ là một Tòa Đại hình khác, hội đồng xét xử sẽ do Tòa Phá án trực tiếp thành lập, và sẽ bao gồm Đoàn bồi thẩm 12 thành viên [thay vì 9 như cấp sơ thẩm] (6). Đây được xem là một bước tiến đáng kể trong quá trình bảo vệ quyền của người bị buộc tội của pháp luật Tố tụng hình sự Pháp.

3. Thủ tục Phá án:

Cũng như thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm ở Việt Nam, thủ tục Phá án Pháp không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một cấp thẩm tra trên giấy tờ các bản án có đề nghị Phá án [pettiton for review]. Tòa Phá án có quyền xem xét lại đối với bất kì bản án nào của bất kì Tòa nào trong nhánh Tòa Tư pháp này. Tuy nhiên, hạn chế của Tòa Phá án là nó không được phép xem lại vấn đề tình tiết của vụ án, mà chỉ được phép thẩm tra lại việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới.

Nếu trong quá trình thẩm tra này, Tòa Phá án đồng ý với cách áp dụng pháp luật của Tòa cấp dưới, Tòa sẽ ra quyết định bác đơn kháng nghị [rejet de pourvoi] và bản án kia sẽ là chung thẩm. Nếu Tòa Phá án không đồng ý với cách giải quyết của Tòa cấp dưới, Tòa sẽ ra quyết định đình chỉ thi hành bản án [casse le jugement] và yêu cầu một Tòa án khác cùng cấp với Tòa đã đưa ra bản án bị Phá án xét xử [renvoi]. Tòa Phá án không được giao cho bất kì Tòa nào đã xét xử vụ án này xét xử lại (7).

Ví dụ: Tòa Phá án phá một bản án của Tòa Tiểu hình khu vực 3, thì Tòa Phá án sẽ giao vụ án này lại cho Tòa Tiểu hình khu vực 2 hoặc một tòa nào khác tòa khu vực 3 xét xử. Nếu bản án của Tòa Tiểu hình khu vực 2 tiếp tục bị phá, thì Tòa Phá án phải giao cho một Tòa tiểu hình khác ngoài Tòa khu vực 2 và khu vực 3. Cứ thế, trình tự tiếp diễn trở về sau.


Vậy thì, hậu quả pháp lý của một bản án bị phá là như thế nào? Nó sẽ được giao xét xử lại. Nhưng pháp luật Pháp không bắt buộc Tòa xét xử lại này tuân theo những gì mà Tòa Phá án đã chỉ đạo. Thật ra, trước đây, pháp luật cũng không quy định về việc một bản án có thể bị phá bao nhiêu lần. Điều này có thể dẫn đến tình trạng bế tắc nếu như các Tòa cấp dưới nhất quyết không tuân theo những chỉ đạo của Tòa cấp trên. Để giải quyết tình trạng này, về sau, pháp luật [và một phần là tập tục] đã buộc Tòa xét xử lại lần 2 [xét xử lại bản án bị phá lần 2] phải tuân theo những chỉ đạo của Tòa Phá án Pháp (8).

---END---

(1): Xem Gerald Kock, The Machinery of Law Administration in France, 108 U.PA.L.Rev 366, 367-380 [1960].
(2): Id
(3): Id
(4): http://www.justice.gouv.fr/index.php?rubrique=10031&ssrubrique=10033&article=12026; Xem thêm C.Pr.Pén., Liv.II, Titre II, Chap. II, §1, Art. 496.
(5): Xem C.Pr.Pén., Liv.II, Titre Ier, Chap. IX, §1, Art. 380-1.
(6): http://www.justice.gouv.fr/index.php?rubrique=10031&ssrubrique=10033&article=12027 [at La Cour d'Assises d'appel]
(7): Gerald Kock, supre note 1.
(8): Id.

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010

Trách nhiệm hữu hạn và Luật công ty

"Trách nhiệm hữu hạn" là gì? Và tại sao những nhà đầu tư thông thường lại được hưởng chế độ này khi họ đầu tư vào các công ty?


Cần nói ngay từ đầu, khi chúng ta nói đến "trách nhiệm hữu hạn" [TNHH], có nghĩa là chúng ta đang nói đến khía cạnh nợ và nghĩa vụ trả nợ của chủ thể. Một chủ thể sẽ làm ăn bình thường mà không cần nói đến vấn đề trách nhiệm này, cho đến khi công ty thực sự có "trách nhiệm", ở đây là nợ. Chữ liability [limited liabilty] trong tiếng Anh kế toán cũng có nghĩa là "nợ". Như vậy, trách nhiệm hữu hạn có thể hiểu là nghĩa vụ chịu nợ hữu hạn của chủ thể.

Chúng ta thường nghe nói đến AIA là một công ty trách nhiệm hữu hạn, hay công ty cổ phần nhựa Bình Minh có chế độ trách nhiệm hữu hạn... Tuy nhiên, khi chúng ta nói đến TNHH, chúng ta không nói đến trách nhiệm của công ty, mà chúng ta đang nói đến trách nhiệm của những nhà đầu tư góp vốn để tạo nên công ty đó. Theo định nghĩa luật học, và pháp luật các nước đều quy định như thế, TNHH là nói đến trách nhiệm của nhà đầu tư vào công ty đối với các khoản nợ của công ty. Nghĩa là TNHH dùng để bảo vệ nhà đầu tư chứ không bảo vệ công ty. Công ty trong mọi trường hợp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với tài sản của nó.

Lấy ví dụ minh họa: Công ty cổ phần Dimichelle có 1 cổ đông là ông Lê Nguyễn Duy Hậu, góp vốn mua 10,000 cổ phần với giá 10,000 VNĐ/cổ. Như vậy vốn ban đầu của công ty Dimichelle sẽ là 10,000 x 10,000 = 100 triệu VNĐ.
  • Nếu trong quá trình hoạt động, tài sản công ty còn 100 triệu, nhưng số nợ đến hạn lên đến 300 triệu. Do công ty có chế độ TNHH, nên ông Hậu là nhà đầu tư sẽ không phải chịu trách nhiệm thêm gì đối với khoản nợ này của công ty, ngoài việc ông chịu mất trắng 100 triệu đầu tư ban đầu. Như vậy, chủ nợ trong trường hợp này đành ngậm ngùi thu về 100 triệu và chịu mất 200 triệu.
  • Tương tự, nếu tài sản công ty tăng lên 200 triệu, nhưng nợ là 300 triệu. Điều này không có nghĩa là công ty chỉ phải chịu mất 100 triệu ban đầu. Bản thân công ty là một pháp nhân, nó chịu trách nhiệm vô hạn, nên nó sẽ mất 200 triệu tài sản. Chủ nợ thu về 200 triệu và mất 100 triệu. Ông Hậu, tuy thực chất là chủ công ty, nhưng sẽ vô can trong trường hợp này.

Xem xét ví dụ trên, có thể thấy, khi vấn đề TNHH được đặt ra [nợ đến hạn], thì tài sản công ty còn bao nhiêu sẽ phải đem đi thanh toán cho đủ số nợ. Nếu không đủ thì thôi, chủ nợ sẽ mất phần còn thiếu, công ty phá sản và chấm dứt hoạt động, tài sản riêng của nhà đầu tư, chủ công ty không bị đụng đến.

Ngày nay, có lẽ là tất cả mọi hệ thống pháp luật trên thế giới về công ty đều xem chế độ trách nhiệm hữu hạn là một đặc tính không thể thiếu và mang tính đặc trưng, định nghĩa khi nói đến công ty. Tuy nhiên, quan điểm về TNHH không phải là một quan điểm có tính tự nhiên. Chế độ TNHH ra đời xuất phát từ sự thôi thúc của các điều kiện lịch sử và kinh tế.

Thật khó để xác định lịch sử của chế độ TNHH. Theo luật gia vĩ đại William Blackstone của Anh, có lẽ nó xuất phát từ các corpora của người La Mã cổ đại (1). Nhưng điều này cũng không chắc chắn. Chỉ biết rằng, khi các quốc gia thực dân cử đội tàu của những công ty Đông Ấn đi khai phá thuộc địa, người ta đã cho phép nhà đầu tư được hưởng chế độ TNHH đối với phần vốn góp vào trong đội tàu, vì tính chất quá nguy hiểm của những cuộc hải hành này (2). Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại nội địa, ví dụ như ở Anh, các nhà đầu tư vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn, cho đến năm 1855 với Đạo luật về TNHH [Limited Liability Act]. Nhưng thậm chí khi đã có luật, người ta cũng không có cách hiểu trọn vẹn về vấn đề này, cho đến năm 1897, khi Viện nguyên lão Anh [House of Lords] với tư cách là Tòa tối cao lúc bấy giờ đã đưa ra phán quyết có tính bước ngoặt trong vụ Salomon v. Salomon & Co.. Trong vụ này, Thẩm phán Halsbury đã đưa ra một nhận định nổi tiếng, trong đó cho rằng nếu công ty Salomon & Co của ông Salomon làm chủ không phải là "một thực thể độc lập", thì nghĩa là chúng ta rơi vào cái vòng luẩn quẩn "vừa có công ty, vừa không có công ty" (3). Bằng việc tách công ty Salomon & Co ra khỏi cái bóng của ông chủ Salomon, Viện nguyên lão Anh đã đưa ra chính thức xác định rằng công ty là một thực thể độc lập khỏi chủ của nó [tư cách pháp nhân] và tài sản của chủ và tài sản của công ty là hai loại tài sản độc lập, do đó không thể lấy để bù qua cấn lại. Ở Anh là như thế, ở Mỹ, chế độ TNHH cũng chỉ được công nhận kể từ năm 1931 (4).


Vậy thì tại sao nhà đầu tư phải được hưởng TNHH khi đầu tư vào công ty?

Có nhiều cách để trả lời câu hỏi này. Ở đây, tôi cho rằng có hai lý do chính:

Xét về mặt kinh tế, đặt chế độ TNHH vào công ty khiến cho hiệu quả kinh tế được đẩy lên cao nhất. Điều này được lịch sử doanh nghiệp Mỹ và Anh chứng minh. Hai tác giả Reiner R. Kraakman [Harvard] và Henry Hansmann [NYU] đã có những bình luận khá hay về khía cạnh này (5):
  • Hai ông cho rằng đây là một cách làm thuận tiện. Nó cho phép chủ nợ của doanh nghiệp có quyền ưu tiên tiếp cận tài sản doanh nghiệp, trong khi chủ nợ của nhà đầu tư có quyền ưu tiên tiếp cận tài sản của nhà đầu tư. Vì rằng hai loại chủ nợ này chính là người hiểu biết rõ nhất về tình trạng tài chính của con nợ mình, nên việc đặt chế độ TNHH lên công ty để tách bạch nợ công ty và nợ của nhà đầu tư khiến cho chủ nợ xác định được mình phải đòi ai, và đòi ở đâu. Từ đó tiết kiệm đáng kể những chi phí trong việc thu hồi nợ.
  • Nó giúp cho các doanh nghiệp làm ăn lớn, có nhiều công ty con, có khả năng chia rủi ro khi giao dịch ra làm nhiều phần nhỏ. Điều này cũng giúp các doanh nghiệp lớn có khả năng thế chấp một phần tài sản làm đảm bảo khi vay nợ dễ dàng hơn, từ đó giúp chủ nợ khoanh vùng khối lượng tài sản cần theo dõi.
  • Cuối cùng, bằng việc quy định TNHH, phần nào đó, luật công ty đã chuyển rủi ro về tài chính từ nhà đầu tư sang cho chủ nợ [nhà đầu tư đã sẵn sàng mất tiền, trong khi chủ nợ có động cơ hơn để đòi giám sát hoạt động của công ty]. Từ đó buộc chủ nợ phải tham gia giám sát hoạt động của công ty. Như vậy là một công đôi việc.
Xét về tính công bằng, phải nhìn nhận rằng các công ty là một thực thể độc lập khỏi những nhà đầu tư. Một công ty có thể có hàng trăm nhà đầu tư, nhưng công ty vận hành như thế nào đôi khi lại nằm trong tay khoảng một hai người lãnh đạo. Như vậy, sẽ có những nhà đầu tư rơi vào thế đặt tài sản của mình vào tay người khác do đã lỡ tham gia công ty. Để tránh trường hợp này, đồng thời cũng nhằm thu hút nhiều nhà đầu tư bỏ vốn, pháp luật đặt ra vấn đề giới hạn trách nhiệm cho các nhà đầu tư. Như vậy, việc đem đầu tư 100 triệu vào công ty cũng sẽ giống như một sự chấp thuận giao 100 triệu của nhà đầu tư cho một nhóm người biết làm ăn để sinh lời, chứ không còn mang nặng tính cá cược, rủi ro như trước nữa. Đây là một cách làm hợp lý. Thật ra, luật công ty của các quốc gia thường chú trọng việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa bên được đại diện [principal] và bên đại diện [agent], bởi vì bên được đại diện [ở đây là nhà đầu tư] thường khó có thể biết được bên đại diện [ở đây là công ty] sẽ làm gì với vốn của mình. Chính từ sự bị động về thông tin này, pháp luật về TNHH ra đời cũng là để bảo vệ cho bên được đại diện [Tất nhiên, đây chỉ là một cách để bảo vệ và thật ra cũng không phải là cách làm đặc trưng].



Tuy nhiên, vấn đề TNHH của nhà đầu tư cũng bị chỉ trích dữ dội. Nhiều người cho rằng đây thực tế chỉ là sự chuyển dịch rủi ro từ nhà đầu tư sang cho xã hội. Họ lập luận rằng, việc cho nhà đầu tư một TNHH sẽ khiến cho nhà đầu tư đó, nếu tham gia điều hành công ty, sẽ không có trách nhiệm đối với các giao dịch của mình [vì số tiền mất là đã xác định được]. Cũng giống như hiện tượng moral hazard trong bảo hiểm, đây là điều mà pháp luật công ty cũng cần tính đến. Ngày nay, vấn đề này càng trở nên nóng bỏng kể từ sau vụ nhà máy Bhopal gây thiệt hại ở Ấn Đ, vượt xa mức số tài sản thực của công ty.

Để giải quyết vấn đề này, luật công ty có thể đưa ra những quy định rắc rối liên quan đến việc tách bạch quyền điều hành và quyền sở hữu công ty, hoặc lập ra các ủy ban giám sát hoạt động của công ty [trustees], hay bắt công khai thông tin công ty trước khi giao dịch [cáo bạch, disclosure]... Tuy nhiên, phổ biến nhất hiện nay là nguyên tắc "phá hạn trách nhiệm" hay "piercing the corporate veil", trong đó cho phép tòa án với tay đến số tài sản độc lập của nhà đầu tư trong một số trường hợp. Như vậy, có lẽ đã đến lúc cần định nghĩa là khái niệm TNHH và phạm vi được hưởng TNHH của nhà đầu tư. Hai tác giả Kraakman va Hansmann cho rằng khi nói đến vấn đề TNHH thì chúng ta đang nói đến TNHH trong hợp đồng, tức là đối với các chủ nợ tự nguyện. Còn đối với các chủ nợ không tự nguyện, vấn đề TNHH không nên được đặt ra. Đây là những trường hợp liên quan đến việc công ty phải có trách nhiệm đối với các khoản nợ do công ty gây thiệt hại ngoài hợp đồng [torts], như trong các thảm họa môi trường [environmental disaster], hoặc đối với các trường hợp gây thương tích cá nhân [personal injury].

Lê Nguyễn Duy Hậu
[15 tháng 3 năm 2010]



(1) Xem Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Tri thức [2009], trang 32
(2) Sđd, trang 35
(3) Sđd, trang 69
(4) Xem Phillip Blumberg, Limited Liability and Corporate Groups, 11 Journal of Corporate Law 573 [1986]
(5) Xem R. Kraakman, H. Hansmann and co-writers, The Anatomy of Corporate Law: A Comparative and Functional Approach, Oxford University Press [2004], trang 8-10

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2010

Brandeis on Freedom of Speech

Vào năm 1927, Thẩm phán Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, Louis D. Brandeis [1856-1941] đã viết một trong những ý kiến [concurring] xuất sắc nhất trong lịch sử Tối cao pháp viện Hoa Kỳ. Trong vụ án Whitney v. California, Louis Brandeis đã đưa ra ý kiến của mình về những giới hạn và phạm vi của quyền Tự do ngôn luận. Ngày nay, những lý luận của Brandeis không chỉ mang giá trị pháp lý cao cho thực tiễn xét xử các vụ án về quyền Dân sự ở Hoa Kỳ, mà còn là một biện hộ quan trọng và có sức thuyết phục cho phong trào vì Quyền Tự do ngôn luận trên toàn thế giới.



"... Những người đã giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta tin tưởng rằng, mục đích sau cùng của Nhà nước là giúp cho con người tự do phát triển những tố chất của bản thân. Và rằng trong chính phủ, sự thiện chí đối thoại phải chiến thắng bạo lực hung tàn. Họ trân trọng tự do như là một mục tiêu, và cũng là phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Họ tin rằng tự do chính là bí mật của hạnh phúc, và lòng dũng cảm là bí mật của tự do. Họ tin tưởng rằng: được quyền suy nghĩ như mình muốn và được nói lên những gì mình suy nghĩ là quyền bất khả phân, và là chìa khóa để tìm ra chân lý chính trị. Rằng nếu không có tự do ngôn luận, những cuộc hội họp chỉ là vô bổ. Rằng thông qua tranh luận, những ý tưởng học thuyết điên rồ sẽ bị đánh bại. Rằng kẻ thù lớn nhất của tự do chính là những con người bất động, vô tâm. Rằng tự do ngôn luận là nghĩa vụ chính trị và giá trị căn bản của chính quyền Mỹ. Họ cũng đã nhận ra những mối đe dọa mà các định chế do con người tạo ra có thể gây ra. Nhưng họ cũng hiểu rằng trật tự xã hội không thể được đảm bảo chỉ bằng nỗi sợ bị trừng phạt khi vi phạm pháp luật; rằng sẽ là rất nguy hiểm nếu như ngăn cản những suy nghĩ, hy vọng và trí tưởng tượng; rằng nỗi sợ sinh ra áp bức, rằng áp bức sinh ra thù hận, rằng thù hận là mối đe dọa cho một chính phủ vững bền; rằng con đường dẫn đến sự an toàn nằm ở cơ hội được tự do thảo luận những bất bình đương nhiên và những hậu quả có thể xảy ra, và rằng giải pháp phù hợp nhất dành cho những lời biện hộ xấu chính là những tranh luận tốt. Với niềm tin rằng sức mạnh của lý lẽ được áp dụng thông qua những cuộc thảo luận công khai, họ từ chối sự im lặng có được từ luật pháp – đó là sự tranh luận bằng bạo lực ở dạng tồi tệ nhất. Nhận thấy sự chuyên chế của đa số nắm quyền vào bấy giờ, họ đã tu chính bản Hiến pháp để cho quyền Tự do ngôn luận và Tự do lập hội được bảo vệ.


Chỉ nỗi sợ về những tổn thương nghiêm trọng không thể biện minh cho sự ngăn cấm Tự do ngôn luận và hội họp. Con người ta sợ phù thủy nên đã thiêu sống phụ nữ. Chức năng của ngôn luận là giải thoát con người khỏi lệ thuộc vào những nỗi sợ phi lý. Muốn biện minh cho sự ngăn cấm Tự do ngôn luận, bắt buộc phải có cơ sở hợp lý để e ngại rằng những tội ác nghiêm trọng sẽ xảy ra nếu Tự do ngôn luận được thực hiện. Phải có một cơ sở hợp lý để tin rằng một mối nguy hiểm rõ ràng đang sắp sửa xảy ra. Phải có một cơ sở hợp lý để tin rằng tội ác cần ngăn chặn là một tội ác nghiêm trọng. Tất cả những chỉ trích chống lại luật lệ hiện hành đều nhắm tới bằng cách nào đó việc gia tăng hả năng rằng tội phạm sẽ xảy ra. Sự tha thứ cho hành vi vi phạm càng gia tăng khả năng đó. Những biểu hiện đồng tình thêm vào khả năng. Sự truyền bá những tư tưởng tội phạm bằng cách giảng dạy về chủ nghĩa công đoàn càng làm gia tăng khả năng. Biện minh cho hành vi vi phạm pháp luật càng nâng cao khả năng đó xa hơn. Nhưng ngay cả những biện minh cho bạo lực ấy, cho dù đáng lên án về đạo đức, thì cũng không phải là cái cớ cho việc từ chồi quyền Tự do ngôn luận một khi những lời biện hộ đó không phải là sự kích động và cũng không có gì tỏ ra rằng lời nói đó sẽ được thừa hành ngay lặp tức. Sự khác biệt lớn giữa biện hộ và kích động, giữa chuẩn bị và xâm hại, giữa hội họp và âm mưu, phải được ghi nhớ nằm lòng. Nhằm giúp cho việc phát hiện ra mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, phải chứng minh được rằng hoặc là bạo lực nghiêm trọng ngay tức khắc đã đương nhiên trù tính được hay đã được tán thành; hoặc những hành vi trong quá khứ cho ta lý do để tin chắc rằng những lời biện hộ đó sẽ được thực hiện về sau.


Những người đã đấu giành độc lập cho chúng ta bằng con đường cách mạng không hèn nhát. Họ không sợ sự thay đổi về chính trị. Họ không đánh đổi ổn định bằng cái giá là sự Tự do. Đối với những con người can đảm, tự cường, có niềm tin vào sức mạnh của lý trí tự do và không sợ hãi, được áp dụng thông qua tiến trình của một chính quyền dân chủ, thì những mối nguy hiểm có thể có từ ngôn luận tự do không thể được xem là “rõ ràng và hiện hữu”. Trừ khi tội ác có thể xảy ra là quá hiện hữu đến mức nó không cho chúng ta một cơ hội để có được sự thảo luận đầy đủ. Nếu như vẫn còn đó thời gian để thông qua tranh luận, chúng ta lật tẩy được những điều sai trái và ngụy biện, để ngăn chặn cái xấu bằng biện pháp giáo dục, thì giải pháp chúng ta phải chọn là càng nhiều hơn nữa những phát ngôn, chứ không phải một sự im lặng bị ép buộc. Chỉ có tình trạng khẩn cấp mới có thể biện minh cho việc đàn áp. Những điều kể trên là nguyên tắc nếu như chúng ta muốn dung hòa giữa quyền lực và tự do. Những điều đó, theo ý kiến của tôi, là tư tưởng chỉ đạo của bản Hiến pháp. Do đó, người dân Hoa Kỳ luôn luôn được thoải mái chống lại những đạo luật ngăn cấm quyền Tự do ngôn luận và Tự do hội họp, bằng cách chỉ ra rằng không hề có một trường hợp khẩn cấp nào biện minh cho đạo luật đó…”

Thứ Tư, 10 tháng 3, 2010

Holmes và nguồn gốc của Thông luật

Có một nguồn gốc thống nhất nào cho tất cả mọi quan điểm, truyền thống pháp luật trên thế giới không?

Bài viết dưới đây thử tìm kiếm một nguồn gốc như thế. Thật ra những quan điểm này không hoàn toàn thuộc về tác giả. Đây là sự tổng kết từ quan điểm pháp luật thực chứng [legal realism] của Thẩm phán Oliver Wendel Holmes, Jr (1841-1935), được trình bày trong chương I của tác phẩm nổi tiếng The Common Law (1881). Hy vọng bài viết sẽ là nguồn tham khảo bổ ích cho các bạn sinh viên khi làm quen với môn học Lý luận về pháp luật và môn học Luật so sánh.

=============================================

Holmes cho rằng: "hình thái đầu tiên của pháp luật bắt nguồn từ sự báo thù [venegance]". Luận đề đầu tiên của Holmes có thể đã gây nên tranh cãi cho các luật gia tin rằng pháp luật đi ra từ cái gì đó thiêng liêng hơn.

"Pháp luật của người La Mã cổ đại bắt đầu từ những món nợ máu [blood feud]. Pháp luật Đức cổ cũng như thế". Pháp luật của người Anglo-Saxon cho đến trước thời đại của William the Conqueror cũng vậy.

Để chứng minh cho luận điểm trên, Holmes đưa ra một loạt các vụ việc cụ thể:

1. Trong Exodus, người ta cho rằng: "Nếu một con bò húc chết một người, làm người đó chết: thì con bò đó sẽ bị ném đá cho đến chết, và người ta không được ăn thịt của nó; trong khi đó, chủ của con bò sẽ thoát nợ".

2. Plato thời Hy Lạp cổ đại cho rằng: "Nếu một tên nô lệ giết một người, thì hắn sẽ bị giao nộp cho thân nhân của người đã chết để cho những người này xử lý theo ý muốn của mình". "Nếu một con thú giết chết một người, con thú đó sẽ bị giết và xác sẽ bị vứt ra khỏi biên giới".

3. Trong Luật 12 bảng [Twelve Tables - 451 B.C] của La Mã cũng ghi nhận: "Nếu một con thú gây thiệt hại, thì hoặc là con thú đó phải được giao nộp, hoặc là thiệt hại phải được bồi thường".

4. Cũng theo Luật 12 bảng, nếu "Con nợ không thể thanh toán được nợ cho nhiều chủ nợ và bị phá sản, chủ nợ có quyền cắt xẻ thịt của con nợ ra chia cho nhau đem về. Nếu chỉ có một chủ nợ, con nợ có thể bị chủ nợ giết hoặc đem bán đi làm nô lệ".

5. Theo luật của người Đức cổ [Teuton]: "Nếu một tên nô lệ giết chết một người tự do, tên nô lệ sẽ được giao nộp cho thân nhân của nạn nhân để bù đắp 1/2, trong khi chủ của tên nô lệ phải trả thêm 1/2 tiền bồi thường nữa".

6. Theo luật cổ của người Kentish [một trong những hệ thống cấu thành pháp luật Anh cổ], "Nếu một tên nô lệ giết chết một người tự do, chủ của tên nô lệ phải trả 100 shillings và giao nộp tên nô lệ đó".

7. Theo luật của người Kuki tại Nam Á: "Nếu một con hổ giết một người Kuki, gia đình của anh ta sẽ mang mối nhục cho đến khi họ giết và ăn thịt con hổ đó, hoặc một con hổ khác. Nếu người đó bị giết vì cây đổ, thân nhân phải trả thù bằng cách đốn cái cây đó và xẻ nó ra thành khúc".

8. Theo luật của người Scotland: "Nếu một con ngựa hoang lôi một người đến vùng hồ nước, kết quả là người đó bị chết đuối. Thì con ngựa đó sẽ bị đem sung công cho nhà vua. Nhưng nếu đó không phải là ngựa hoang mà là ngựa thuần chủng thì chủ của con ngựa phải chịu trách nhiệm".

9. Theo Luật của vua Edward I: "Nếu một người rơi từ trên cây xuống và chết, cái cây sẽ bị chặt. Nếu người đó bị chết chìm trong giếng, giếng sẽ bị lắp".

10. Theo Luật của Ulpian cho đến thời Austin: "Nếu một người làm bánh lái chiếc xe bò cho chủ của mình để giao bánh vào buổi sáng, đã cán lên một người khác. Thì thiệt hại sẽ do chủ của người đó đền bù với lỗi rằng người chủ này đã giao việc cho một người không phù hợp [improper person]". Nếu người chủ chứng minh rằng anh ta đã căn dặn người làm thuê kĩ càng, thì lý do sẽ là phải có một hậu quả pháp lý nào đó [remedy] đè lên vai người có khả năng đền bù thiệt hại, hoặc là hành vi sai phạm đó xuất phát từ chính việc thực hiện nhiệm vụ cho ông chủ.

Khảo sát sơ qua 10 ví dụ của Holmes, có thể thấy mục đích cao nhất của pháp luật của các xứ sở cổ đại là nhằm cân bằng hóa những gánh nặng mà các bên hứng chịu. Trả thù theo nghĩa của Holmes hiểu chính là sự bắt buộc bên gây thiệt hại phải bù đắp cho bên thiệt hại.

Ban đầu, pháp luật các xứ sở đều có chung một giải pháp cho việc bù đắp, đó là tôi mất một thì anh mất một [an eye for an eye]. Thường những vật gây thiệt hại sẽ bị đem đi tiêu hủy, hoặc đem cho thân nhân của người bị thiệt hại xử lý, thông thường là giết hoặc phá hủy vật đó như để thỏa mãn khao khát trả thù của mình.

Tuy nhiên, xã hội và nhận thức con người phát triển và pháp luật cũng không thể tiếp tục man rợ như thế. Holmes gọi cách xử lý của vua Edward I sống ở thế kỷ 13, cách rất xa thời kì nguyên thủy, ở ví dụ số 9 là cách xử lý "làm gợi nhớ đến thời kì của các bộ tộc man di" [barbarians]. Dần dần, pháp luật các xứ sở cụ thể hóa những đối tượng phải chịu trách nhiệm, chứ không còn đơn thuần là buộc tội kẻ trực tiếp gây hậu quả. Pháp luật về trách nhiệm của chủ đối với thiệt hại của người làm công ra đời [Ví dụ 10]. Cần lưu ý rằng Ulpian là một luật gia La Mã, còn Thomas Austin thì là một luật gia người Anh sống ở thế kỷ 18, nhưng cách giải quyết vấn đề của hai ông là tương đồng. Holmes không ngẫu nhiên khi chọn hai luật gia đến từ hai hệ thống pháp luật khác nhau, ở cách xa nhau để chứng minh cho tính thông thường [common] của nguyên tắc này.

Hơn nữa, các xứ sở cũng đi đến một nhìn nhận khác về mục tiêu "báo thù" của pháp luật. Nếu như sự "báo thù" của pháp luật cổ xưa chỉ nhằm mục đích trừng phạt kẻ gây ra hậu quả và làm yên lòng về tinh thần cho người bị thiệt hại, thì pháp luật đã tiến lên đến mức độ mà, nói như Holmes, "món nợ máu có thể trả được bằng tiền". Đây là cách mà thay vì cả pháp luật tước bỏ đi của kẻ thủ ác nhằm cân bằng hóa với người bị hại [cả hai cùng thiệt hại], thì nay pháp luật tước đi của kẻ gây thiệt hại để đền bù cho nạn nhân. [nạn nhân được bù đắp] Ở Anh, nợ máu chấm dứt từ thời William the Conqueror chinh phục được quần đảo Anh quốc, đặt nền móng đầu tiên cho nền Thông luật hiện đại.

Giải thích vì sao sự báo thù thể xác ngày càng được thay thế bằng những trách nhiệm vật chất, và tại sao ngay cả đối với quan hệ tư, pháp luật cần phải can thiệp, Thẩm phán Richard Posner cho rằng

"Trả thù là một hệ thống hết sức bất tiện vì nó cản trở sự chuyên môn hóa các lực lượng lao động. Thay vì giao việc xét xử cho các chuyên viên pháp lý, người trả thù phải đảm nhiệm luôn chức vụ bắt giữ, xét xử, tuyên án và thi hành án... và hơn thế nữa, anh ta sẽ trở thành mục tiêu cho sự trả thù của gia đình nạn nhân bị anh ta xét xử"
(Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng trích lại, Tạp văn, NXB Tổng hợp TPHCM)

Quay trở lại với câu chuyện về nguồn gốc của các hệ thống pháp luật trên thế giới, câu chuyện của Holmes chỉ là một cách giải thích cho những nét tương đồng về cách hiểu, tư duy pháp lý của các dân tộc cổ xưa về chế độ trách nhiệm pháp lý của người gây thiệt hại. Nhưng cho dù là một nhà pháp luật thực chứng điển hình, nhưng các quan điểm của Holmes, dù chỉ ở dưới dạng mô tả thống kê, cũng chỉ ra rằng pháp luật ở một mức độ nào đó có nguồn gốc từ tư duy thông thường của mọi người dân trên thế giới. Dù ở vùng miền nào thì ở đâu đó, cách hiểu này cũng giống nhau. Có thể gọi đây là một dạng thức của pháp luật tự nhiên [natural law]. Việc các hệ thống pháp luật phân chia và trở nên khác nhau như hiện nay cũng giống như câu chuyện Thượng đế trừng phạt con người vì dám xây dựng ngọn tháp Babel. Đó là một quy luật tất yếu, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những dấu tích về một nền tư tưởng pháp lý chung.

Nói về Thông luật, Holmes mạnh dạn khẳng định, Thông luật có nguồn gốc không chỉ từ pháp luật Anglo-Saxon cổ đại, mà còn là pháp luật La Mã và pháp luật Đức cổ, những hệ thống pháp luật mà ông gọi là "cha mẹ của pháp luật của chúng ta" (Holmes, The Common Law, trang 17). Lời khẳng định này có thể chỉ là một tuyên bố chủ quan của Holmes nhưng nó cũng mở ra một tư duy mới cho các sinh viên khi nghiên cứu bộ môn Luật so sánh.

Cuối cùng, tại sao lại tồn tại pháp luật trên đời trong khi ngay bản thân sự trả thù cũng phần nào giải quyết được vấn đề? Pháp luật có thực sự đi ra từ mục đích gì đó thiêng liêng? Nói như Richard Posner có thể bao quát vấn đề. Pháp luật suy cho cùng là nói đến sự hài hòa, trong khi trả thù chỉ là cách anh làm cho bản thân cảm thấy thoải mái hơn. Tiến sỹ Dương Ngọc Dũng trong một bài Tạp văn in tháng 12 năm 1998 cũng tổng kết một cách rất hay về đề tài này:

"Trong thiên sử thi Hy Lạp Odyseey, nhân vật chính Odyseeus cũng nói rằng nếu ông giết chết những kẻ theo đuổi Penelope, vợ ông, gia đình của họ chắc chắn sẽ trả thù, và chỉ một thần linh trên đỉnh Olympics mới có thể ngăn cản được việc này. Pháp luật phải ra đời để phá bỏ cái vòng luẩn quẩn đó"
(Dương Ngọc Dũng, Pháp luật và Báo thù)


Lê Nguyễn Duy Hậu
[10 tháng 3 năm 2010]

Thứ Ba, 9 tháng 3, 2010

Trial by media

Nhân vụ việc của Kim Anh, mình chợt nhớ một vụ án của Ấn Độ mình đọc cách đây không lâu.

Vụ mưu sát Jessica Lall.

Đại khái thế này. Jessica Lall là 1 người mẫu khá nổi tiếng của Ấn Độ. Vào tháng 4 năm 1999, người ta tìm thấy cô bị sát hại tại 1 quầy bar ở thủ đô New Delhi, Ấn Độ.

Người ta tìm thấy 2 viên đạn ở hiện trường và 1 số nhân chứng phục kích, thề rằng họ thấy hung thủ là Manu Sharma, con của một chính trị gia nổi tiếng của Ấn Độ lúc bấy giờ.

Ngay lập tức, vụ việc được dư luận Ấn Độ rất quan tâm. Báo chí ngày đêm đưa tin về vụ việc này, thậm chí người ta còn lập cả những phiên tòa giả để kết án Manu Sharma. Trong lúc này, cảnh sát vẫn tiếp tục điều tra.

Ngày phiên tòa sơ thẩm diễn ra, luật sư của Manu là Nassem đã làm một động tác vô tiền khoáng hậu. Ông yêu cầu hội đồng xét xử bác bỏ hết mọi lời buộc tội của phía công tố vì ông cho rằng thân chủ của mình đã phải chịu một "phiên tòa báo chí" trước khi ra trước tòa án thật, điều này khiến cho trong lòng người dân Ấn Độ vô hình đã kết án Manu trước khi phiên tòa diễn ra. Từ đó, ông nghi ngờ sự vô tư khách quan của các thẩm phán xét xử vụ việc nhạy cảm này. Đương nhiên, yêu cầu của Nassem không được chấp nhận, nhưng nó đã khiến hội đồng xét xử nhát tay hơn.

Bên cạnh đó, hàng loạt nhân chứng chỉ điểm của phía công tố đột nhiên đổi khẩu cung theo hướng có lợi cho Manu tại phiên tòa, khiến cho một số lượng lớn nhân chứng chỉ điểm chuyển thành nhân chứng địch ý [hostile].

Cuối cùng, với sự thiếu hụt bằng chứng và dựa theo nguyên tắc suy đoán vô tội, Tòa cấp sơ thẩm đã quyết định tuyên Manu trắng án.

Điều này lại một lần nữa khiến cho dư luận Ấn Độ lên tiếng. Các tờ báo lại mở cả một cuộc thánh chiến mà họ gọi là "đi tìm công lý đã mất" để chống lại Manu và bố của ông ta. Thậm chí, một đài truyền hình đã làm cả một phóng sự về hành vi "đưa hối lộ nhân chứng của gia đình Manu" dựa trên những hình ảnh và phỏng đoán mơ hồ.

Cuối cùng, trước áp lực của công luận, phía công tố đã gửi kháng nghị lên cho tòa phúc thẩm.

Tòa phúc thẩm đã tuyên án chung thân đối với Manu nhưng bằng chứng kết tội của tòa phúc thẩm lại rất mơ hồ và mập mờ, dựa nhiều vào lời chứng của một nhân viên quầy bar cho dù anh này không thể mô tả chính xác được gương mặt kẻ thủ ác đêm đó, chỉ biết là hung thủ mặc áo "sáng màu", trùng với màu của áo Manu mặc đêm đó.

Luật sư của Nassem đã kịch liệt phản đối phán quyết này, vì cho rằng nó đã đi ngược với những nguyên tắc pháp quyền thông thường và chịu sự chi phối quá sâu của các bên không tham gia tố tụng.

Còn báo chí thì rất hả hê với sự kiện này. Họ coi đó là chiến thắng của "công luận và sức mạnh nhân dân trước bất công", rằng "kể cả những kẻ có thế lực nhất cũng phải đứng dưới pháp luật".

Nhưng vụ án này sẽ mãi mãi đi vào lịch sử Ấn Độ như một vụ án tai tiếng nhất mà ở đó quyết định của tòa án không phải dựa trên sự vô tư khách quan mà một phần nào đó có sự chi phối của công luận.

Vụ án Kim Anh ngày hôm nay đã dần dần mang dáng dấp như thế, nhưng theo hướng công luận thông cảm cho hung thủ hơn.

Tham khảo: Murder of Jessica Lall - Wikipedia, the free encyclopedia

Lê Nguyễn Duy Hậu
[25 tháng 2 năm 2009]